Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Được xem như điển hình và cũng là nơi khai sinh ra hệ thống dân luật, pháp luật của nước Cộng hòa Pháp cũng đã trải qua nhiều biến cố gắn liền với các sự kiện lịch sử đặc biệt.
Trước Cách mạng Pháp năm 1789, ở Pháp tồn tại cùng lúc rất nhiều chủng loại pháp luật trong một mối quan hệ rất phức tạp, luật bản địa, luật du nhập từ nước ngoài, tập quán địa phương và các tập quán quốc tế, các sắc lệnh do Vua ban hành… Tuy nhiên, cùng với sự lớn mạnh của chính quyền phong kiến trung ương tập quyền, Trung ương Hoàng gia Pháp ngày càng củng cố thế lực và nắm quyền thống trị, đó là lý do ra đời Sắc lệnh năm 1667 về tố tụng dân sự thống nhất của nước Pháp.
Sau 1789, những tư tưởng của trường pháp luật tự nhiên ngày càng được đánh giá cao. Trường phái này đã có công trong việc nâng kỹ thuật lập pháp lên trình độ pháp điển hóa, mà đỉnh cao của nó là Bộ Luật Dân sự Pháp hay còn gọi là Bộ Luật Napoleon 1804.
Pháp điển hóa ở Pháp đã trở thành mẫu mực của hệ thống pháp luật châu âu lục địa. Tiếp đó, các bộ luật đã được soạn thảo và ban hành rất sớm: Bộ luật Dân sự 1804, Bộ luật Tố tụng dân sự 1806, Bộ Luật Thương mại 1807, Bộ Luật Hình sự 1810, Bộ Luật Điều tra hình sự 1812.
Tuy nhiên, pháp điển hóa cũng sớm bộc lộ những hạn chế nhất định. Pháp điển hóa làm xuất hiện trường phái luật học thực chứng (posotivisme législatif). Chủ nghĩa luật học thực chứng là một học thuyết mà theo đó chỉ có giá trị của các quy phạm pháp luật thực định là được thừa nhận, học thuyết này do đó không công nhận sự siêu hình và tư tưởng của luật tự nhiên. Luật học thực chứng đi đến mức tuyệt đối hóa vai trò của pháp điển hóa, chỉ có các đạo luật, tức ở dạng thức duy nhất là văn bản pháp luật mới được coi là nguồn luật. Trên thực tế các bộ luật tuy đảm bảo được tính thống nhất và phổ biến nhưng lại tỏ ra là lạc hậu và thường không bắt kịp được sự phát triển của xã hội, từ đó gây khó khăn cho việc sử dụng pháp luật để điều chỉnh quan hệ xã hội.
Các phác thảo đầu tiên cho một bộ luật dân sự đã được tiến hành ngay từ trong những năm 1793 đến 1797 của cuộc Cách mạng Pháp. Năm 1800 Napoléon chỉ định một ủy ban bốn người dưới sự lãnh đạo của Jean-Jacques Régis de Cambacérès để tạo thống nhất trong luật pháp. Cho đến thời điểm đó trong miền Nam nước Pháp Luật La Mã vẫn còn hiệu lực, trong miền Bắc là luật theo tập quán được truyền lại cũng như là luật tạm thời của Cách mạng Pháp trong một vài năm. Mục đích của ủy ban là tạo nên một gạch nối giữa Luật La Mã và luật theo tập quán và đặc biệt là giữa Luật La Mã và luật cách mạng. Tư tưởng của cuộc Cách mạng Pháp thể hiện trước tiên là trong nguyên tắc tất cả đều bình đẳng trước pháp luật, bảo vệ và sự tự do của cá nhân và của sở hữu cũng như là chia cắt nghiêm ngặt giữa nhà thờ và quốc gia. Một tác phẩm 5 tập của luật sư Jean Domat được xem như là nguồn quan trọng cho bộ luật.
Bộ luật cũng được đưa vào áp dụng trong các quốc gia chịu ảnh hưởng lớn của Pháp trong thời gian từ 1807 đến 1814 (thí dụ như Đại công quốc Warszawa (tiếng Anh: Warsaw), Đại công quốc Luxembourg, Mexico, Ai Cập, một số bang của Hoa Kỳ hay Vương quốc Hà Lan). Tại Đức bộ luật này có hiệu lực trực tiếp trong các vùng tả ngạn sông Rhein do nước Pháp chiếm đóng, trong một số quốc gia của Liên minh Rhein (tiếng Đức: Rheinbund) (Vương quốc Westfalen, Frankfurt am Main, Berg, Anhalt-Köthen) bộ luật được đưa vào sử dụng không có thay đổi lớn.
Chỉ trong vòng vài năm bộ luật đã có hiệu lực từ Lissabon đến Vacsava và từ Hà Lan cho đến bờ biển Adria. Thất bại của Napoléon tại Waterloo đã không kìm hãm được việc truyền bá bộ luật này: đặc biệt là ở Tây Âu và Nam Âu cũng như là ở Bắc Mỹ và Nam Mỹ các bộ luật đều hướng về Code Civil. Tuy vậy một vài quy định có nguồn gốc từ cuộc cách mạng cũng là điểm yếu: tại nhiều vùng quyền kế thừa ngang nhau của tất cả các người con dẫn đến việc chia cắt sở hữu đất đai thành những mảnh đất nhỏ không còn mang lại lợi tức; phụ nữ bị đặt dưới quyền của một người giám hộ và vì vậy đã bị đặt vào một vị trí bất lợi chưa từng có, việc ly hôn ưu tiên một phía cho người đàn ông.
Tại Pháp trong số 2.285 điều khoản hiện đang có hiệu lực của bộ luật là vẫn còn 1.200 điều khoản phù hợp với tác phẩm nguyên thủy.
Bộ luật dân sự Napoleon bao gồm 2283 Điều, chia thành Thiên mở đầu (Titre Preliminaire) và 3 Quyển ( Livre). Các quyển chia làm các Thiên (Titre), các Thiên chia thành các Chương (Chapitre); các Chương chia làm các Phần ( Section); các phần chia thành các Điều (Article).
Thiên mở đầu (Titre Preliminaire) từ Điều 1 đến Điều 6. Thiên này được gọi là: “Công bố luật, hiệu lực của luật và áp dụng luật” (De la publication, des effets et de l,application des lois en general) chứa đựng một số nguyên tắc cơ bản về luật.
Quyển 1 – Về người (Des personnes) từ Điều 7 đến Điều 515.
Quyển này quy định về chứng thư, hộ tịch (Des actes de l,Etat civil) như chứng thư khai sinh, chứng thư kết hôn, chứng thư khai tử; nơi cư trú, mất tích, hôn nhân, ly hôn, quan hệ giữa cha mẹ và con, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, quyền của cha mẹ, tình trạng vị thành niên, giám hộ và quyền tự lập, tình trạng thành niên và những người thành niên được pháp luật bảo hộ.
Quyển 2 – Về tài sản và những thay đổi về sở hữu (Des biens et des differentes modifications de la propriete) từ Điều 516 đến Điều 710.
Quyển này quy định về phân biệt các loại tài sản (động sản, bất động sản), về sở hữu, quyền thu hoa lợi, quyền sử dụng và quyền cư dụng (de l,habitation); dịch quyền (một nghĩa vụ đối với bất động sản tạo điều kiện thuận tiện cho việc sử dụng bất động sản của người khác) hay địa dịch (des servitudes ou services fonciers), dịch quyền phát sinh địa thế, dịch quyền xác lập theo quy định của pháp luật (như các quy định về tường hào chung; hoảng cách giữa các công trình trung gian cần thiết đối với một số công trình xây dựng; trổ cửa sổ sang bất động sản của nhà hàng xóm; máng nước dọc mái nhà); dịch quyền về lối đi; dịch quyền xác lập theo ý chí của con người; chấm dứt dịch quyền.
Quyển 3 – Các phương thức xác lập quyền sở hữu (Des differentes manieres dont on acquiert la propriete) từ Điều 711 đến Điều 2281. Quyển này bao gồm các quy phạm pháp luật liên quan đến các vấn đề thừa kế, tặng cho lúc còn sống và di chúc; hợp đồng hay nghĩa vụ hợp đồng nói chung; những cam kết được hình thành không thông qua thỏa thuận; hôn ước và các chế độ tài sản trong hôn nhân; hợp đồng mua bán; hợp đồng trao đổi; hợp đồng thuê mướn; hợp thầu khoán xây dựng bất động sản; công ty dân sự; những thoả thuận liên quan đến việc thực hiện những quyền không chia phần; vay mượn; gửi giữ và quyền trữ; hợp đồng mang tính chất may rủi (đánh bạc và cá cược; hợp đồng về lợi tức trọn đời); uỷ quyền; bảo lãnh; dàn xếp, thoả thuận trọng tài; cầm cố; quyền ưu tiên và quyền thế chấp; cưỡng chế chuyển quyền sở hữu và thứ tự giữa những người có quyền; thời hiệu và chiếm hữu.
2.2.3. Các đặc điểm cơ bản của bộ luật dân sự Napoleon
Đây là bộ luật phản ánh những tư tưởng của cách mạng dân chủ tư sản Pháp bảo vệ các quyền và tự do của cá nhân:
Về sở hữu, bộ luật đã khẳng định quyền sở hữu là quyền được hưởng thụ và định đoạt tài sản một cách tuyệt đối, miễn là không sử dụng tài sản vào những việc mà pháp luật cấm (Điều 544). Không ai có thể bị buộc nhượng lại quyền sở hữu của mình, trừ phi vì lợi ích công cộng và với điều kiện được bồi thường trước một cách thoả đáng (Điều 545). Mọi người đều có quyền giao kết hợp đồng nếu không bị pháp luật coi là vô năng (Điều 1123). Quyền tự do của cá nhân được khẳng định trong các quy định về quyền của mỗi người được tôn trọng đời tư của mình (Điều 9); quyền của cha, mẹ đối với con chấm dứt khi con đạt 18 tuổi (khi mới ban hành bộ luật là 21 tuổi).
Bộ luật được xây dựng trên nguyên tắc phi tôn giáo:
Đây là nguyên tắc được thể hiện rõ trong các quy định về hôn nhân và gia đình. Thể thức cử hành kết hôn không gắn với nhà thờ mà cử hành công khai trước viên chức hộ tịch của xã, nơi một trong hai vợ chồng thường trú hoặc cư trú vào thời điểm công bố (Điều 165).
Tính ổn định, khả năng tồn tại và có hiệu lực lâu dài của bộ luật:
Bộ luật dân sự Napoleon được các luật gia thực hành nổi tiếng của Pháp như Tronchet, Portalis, Bigot de Préameneu và Maleville soạn thảo dưới sự chỉ đạo trực tiếp của hoàng đế Napoleon, một người có hiểu biết sâu sắc về luật La Mã cổ đại. (Napoleon đã từng dành trọn 2 năm trong tù ngục để nghiên cứu luật La Mã cổ đại với ý định tự mình làm luật sư bào chữa cho mình và nếu sự nghiệp chính trị thành công sẽ xây dựng bộ luật của mình.)
Cho đến nay Bộ luật dân sự Napoleon đã tồn tại được trên 200 năm, vì vậy bộ luật này thường được các luật gia Pháp gọi là “Hiến pháp dân sự” của nước Cộng hoà Pháp. Trải qua hai thế kỷ, trong số 2283 điều của Bộ luật vẫn còn giữ được nguyên vẹn trên 1100 điều.
Bộ luật dân sự Pháp đánh dấu sự phát triển của kỹ thuật lập pháp:
Đây là bộ luật mẫu mực về cấu trúc chặt chẽ§, lôgic của các chế định pháp luật, về việc sử dụng ngôn ngữ chính xác, giản dị, trong sáng, dễ hiểu, sự phù hợp với thực tiễn, sự kết hợp khéo léo giữa tính tổng quát và tính cụ thể của các quy phạm pháp luật. Các nguyên tắc chung của bộ luật dân sự được quy định rất cụ thể, nhưng vẫn đảm bảo tính linh hoạt và mềm dẻo, tạo điều kiện cho các thẩm phán có thể giải thích linh hoạt, phù hợp với thực tế. Có thể đưa ra các ví dụ sau đây để minh chứng:
– Điều 1382: “Bất cứ hành vi nào của một người mà gây thiệt hại cho người khác, thì người gây ra thiệt hại do lỗi của mình phải bồi thường thiệt hại”;
– Điều 1384: “Mỗi người phải chịu trách nhiệm không những về những thiệt hại do mình gây ra mà cả những thiệt hại do những người mà mình phải chịu trách nhiệm hoặc những vật mà mình coi giữ gây ra”.
Hai nguyên tắc trên đây trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng có thể áp dụng cho mọi quốc gia trên thế giới bởi tính hợp lý và công bằng của nó. Những quy định mang tính nguyên tắc như vậy có thể vượt qua không gian và thời gian và có thể áp dụng trong nhiều thế kỷ mà không cần phải nghi ngờ vào tính chân lý và công bằng của nó.
Nhiều quy phạm trong Bộ luật dân sự Napoleon thể hiện tính mẫu mực về tính cụ thể, dễ hiểu, dễ áp dụng và vì thế đã được tiếp nhận nguyên vẹn ở nhiều quốc gia trên thế giới. Chúng ta có thể thấy điều này qua một số điều luật sau đây:
– Điều 671: “Chỉ được phép trồng những cây to, cây nhỡ, cây nhỏ gần giới hạn đất láng giềng theo khoảng cách được xác định theo những quy định cụ thể hiện hành hoặc những thông lệ được thừa nhận. Nếu không có những quy định hoặc thông lệ thì cây mọc cao trên 2 mét phải trồng cách đường giới hạn phân cách hai bất động sản là 2 mét, đối với các cây trồng khác là nửa mét”.
– Điều 673: “Chủ sở hữu bất động sản có quyền buộc bên hàng xóm phải cắt bỏ các cành cây mọc vươn sang đất của mình. Nếu hoa quả ở các cành cây tự nhiên rụng xuống thì chủ sở hữu đất bị cành cây vươn sang được hưởng. Nếu rễ cây hoặc cành nhỏ mọc vươn sang đất người khác thì người đó có quyền cắt những rễ và cành cây nhỏ đó đến giới hạn đường phân chia của hai bên. Quyền được cắt rễ cây và cành nhỏ hoặc quyền được yêu cầu bên hàng xóm cắt các rễ cây, cành cây của các cây to, cây nhỡ, cây nhỏ không thể bị thời hiệu tiêu diệt”.
– Điều 675: “Chủ sở hữu bất động sản liền kề không được trổ cửa sổ hoặc lỗ cửa vào bức tường chung dù bằng bất cứ cách nào, kể cả khi có lắp kính mờ, trừ trường hợp được chủ sở hữu bất động sản liền kề bên kia đồng ý”;
– Điều 681: “Chủ sở hữu bất động sản phải lắp đặt mái nhà sao cho nước mưa chảy vào đất nhà mình hoặc đường công cộng, không được để nước mưa chảy vào đất của bên hàng xóm”.
Bộ luật dân sự Napoleon không ngừng được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện:
Có thể đưa ra các minh chứng sau đây:
– Cơ chế trách nhiệm trước đây trong bộ luật dân sự dựa trên khái niệm lỗi, vì vậy nhiều trường hợp xảy ra tai nạn lao động, nhưng người lao động không được bồi thường do không chứng minh được lỗi của người sử dụng lao động. Luật ngày 9/4/1898 đã buộc người sử dụng lao động phải bồi thường thiệt hại cho người lao động ngay cả trong những trường hợp người chủ lao động không có lỗi. Theo Luật số 70-459 ngày 4/6/1970 cha và mẹ, với tư cách là người thực thi quyền trông giữ con, phải liên đới chịu trách nhiệm về thiệt hại do con chưa thành niên sống với họ gây ra. Người chủ và người được uỷ thác phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do gia nhân và người giúp việc gây ra trong khi họ làm nhiệm vụ. Thầy giáo và những người thợ thủ công phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do học sinh gây ra khi những người này đang chịu sự giám sát của họ.
– Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình có nhiều cải cách trong tư duy pháp luật theo xu hướng tự do và bình đẳng. Quyền lực của người cha, theo triết lý năm 1804, đã bị huỷ bỏ, thay vào đó là khái niệm quyền của cha mẹ đối với con cái. Vào năm 1804, khi Bộ luật mới ra đời, theo Điều 1124 người phụ nữ có chồng bị hạn chế năng lực hành vi dân sự vì khi ký kết hay thực hiện bất kỳ một hợp đồng dân sự có giá trị nào đều phải được sự đồng ý của người chồng. Người vợ có nghĩa vụ tuân theo ý chí của chồng, “có nghĩa vụ sống với chồng và theo chồng đến bất cứ nơi nào được chồng chọn làm nơi cư trú” (Điều 214 Bộ luật dân sự). Về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, người chồng quản lý tài sản chung, nếu vợ chồng không lựa chọn một chế độ quản lý tài sản khác. Thì nay, theo Điều 1124 được sửa đổi theo Luật số 68-5 ngày 3/1/1968, bị coi là không có năng lực giao kết hợp đồng chỉ là những người chưa thành niên, chưa được quyền tự lập và người thành niên được bảo hộ do bị mắc các bệnh tâm thần hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Điều 213 của Bộ luật dân sự được sửa đổi theo Luật số 70- 459 ngày 4/6/1970 xác định vợ chồng cùng nhau đảm bảo việc quản lý gia đình về mặt tinh thần và vật chất. Vợ chồng cùng có nghĩa vụ dạy dỗ con cái và chuẩn bị cho tương lai của chúng. Với Luật số 75- 617 ngày 11/7/ 1975, Điều 215 Bộ luật dân sự đã quy định: “Nơi ở của gia đình là nơi vợ chồng chọn, có sự thoả thuận chung”. Với Luật ngày 3/1/1972 nguyên tắc bình đẳng con trong giá thú và ngoài giá thú được thiết lập. Với Luật ngày 5/7/1974 tuổi thành niên được giảm từ 21 tuổi xuống 18 tuổi.
– Vấn đề xác lập họ, tên cho con cũng là vấn đề cần lưu ý khi nói đến sự phát triển của Bộ luật dân sự Napoleon. Trước năm 2002, theo tập quán pháp luật áp dụng đương nhiên, con mang họ của bố, phụ nữ lấy chồng mang họ của chồng. Tuy nhiên, sau khá nhiều tranh luận, Luật số 2002-304 ngày 4/3/2002, đã được sửa đổi bổ sung theo Luật số 2003-516 ngày 18/6/2003 và được thể hiện trong Điều 311-21 của Bộ luật dân sự Napoleon cho phép cha, mẹ thoả thuận để lựa chọn họ cho con, theo đó con có thể mang họ của bố, hoặc họ của mẹ hoặc họ của cha và mẹ kết hợp lại theo trật tự thỏa thuận.
– Chế định ly hôn trong Bộ luật dân sự cũng đã trải qua nhiều bước thăng trầm và thay đổi đáng kể theo hướng phát triển tư tưởng tự do hôn nhân. Bộ luật dân sự khi mới được ban hành vào năm 1804 đã cho phép ly hôn, trong đó có thuận tình ly hôn. Tuy nhiên, Luật De Bonald ngày 8/5/1816 đã bãi bỏ chế định ly hôn vì cho rằng, chế định ly hôn làm huỷ hoại gia đình. Mãi đến gần cuối thế kỷ XIX, với Luật Naquet ngày 27/7/1884 chế định ly hôn mới được tái thiết lập, tuy nhiên cũng chỉ cho phép ly hôn do lỗi của một bên, còn thuận tình ly hôn vẫn chưa khôi phục được. Luật ngày 15/12/1904 cho phép người vợ (chồng) ngoại tình được kết hôn với người tình của mình. Luật ngày 5/7/1956 cho phép công nhận đứa con do ngoại tình là con trong giá thú nếu bố mẹ đứa trẻ đó kết hôn với nhau. Luật số 75-617 ngày 11/7/1975 đã phi hình sự hoá hành vi ngoại tình, tiếp tục cho phép thuận tình ly hôn và ly hôn do “chấm dứt cuộc sống chung” khi vợ và chồng không sống chung trong thực tế từ 6 năm trở lên” ngay cả khi một bên không muốn ly hôn.
Cuộc cải cách gần đây nhất đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc ly hôn được thực hiện vào năm 2004. Luật số 2004C-439 ngày 26/5/2004 (được thể hiện trong Điều 238 Bộ luật dân sự) quy định cuộc sống chung của vợ chồng được coi là hoàn toàn chấm dứt khi hai vợ chồng đã sống riêng biệt từ 2 năm trở lên, tính từ thời điểm có quyết định triệu tập ra toà để giải quyết việc ly hôn[5].
Vấn đề năng lực hành vi dân sự cũng có những thay đổi nhất định theo từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Điều 22 Bộ luật dân sự Napoleon nguyên thuỷ quy định về vấn đề tước bỏ hoàn toàn quyền dân sự trong trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Quy định này tạo nên một khái niệm khá đặc biệt là “chết dân sự” – con người còn tồn tại về mặt sinh lý học nhưng về khía cạnh pháp lý coi như đã chết vì các quyền dân sự là các quyền cơ bản và tối thiểu nhất của con người không còn nữa. Quy định này đã được bãi bỏ bởi Luật ngày 31/5/1854. Trong phần Thừa kế thuộc Quyển 3 – Các phương thức xác lập quyền sở hữu của Bộ luật dân sự Napoleon có các quy định gián tiếp về năng lực pháp luật dân sự của các phôi thai. Đó là các quy định tại Điều 725 và Điều 906, theo đó các phôi thai được hưởng thừa kế, nếu sinh ra đứa bé sống được.
– Về quốc tịch, Bộ luật dân sự Napoleon cũng có những thay đổi đáng lưu ý. Khi bộ luật mới ban hành, vấn đề quốc tịch chưa được đề cập đến trong bộ luật. Các vấn đề pháp lý liên quan đến quốc tịch được quy định trong một đạo luật nằm ngoài bộ luật, đó là Luật ngày 10/8/1927. Trên cơ sở luật này, năm 1945 Bộ luật quốc tịch đã được ban hành. Với Luật ngày 22/7/1993 các quy định về quốc tịch đã được đưa vào bộ luật dân sự (Thiên I bis bao gồm các Điều từ 17 đến 34). Việc đưa Luật quốc tịch vào bộ luật dân sự khẳng định quan điểm gắn kết các quyền dân sự với tư cách công dân và việc giải quyết các tranh chấp về quốc tịch trước Toà dân sự của Toà án tư pháp. Theo quy định tại Điều 29 Bộ luật dân sự (xác lập theo Luật số 73-42 ngày 9/1/1973) chỉ có Toà dân sự có thẩm quyền giải quyết các vụ kiện về quốc tịch Pháp hoặc quốc tịch nước ngoài của cá nhân. Các Toà hành chính hoặc các Toà tư pháp khác chỉ có thẩm quyền giải quyết các vấn đề quốc tịch khi đó là yêu cầu phụ, trừ trường hợp đó là Toà hình sự có bồi thẩm đoàn. Việc thực hiện thủ tục tuyên bố vào quốc tịch Pháp hoặc mất quốc tịch Pháp, việc cấp giấy chứng nhận quốc tịch Pháp thuộc thẩm quyền của Toà án. Theo quy định tại Điều 26-1 (xác lập theo Luật số 93-933 ngày 22/7/1993) mọi tuyên bố về quốc tịch phải được đăng ký tại toà sơ thẩm có thẩm quyền trong trường hợp thủ tục tuyên bố được thực hiện tại Pháp hoặc tại Bộ Tư pháp trong trường hợp thủ tục tuyên bố được tiến hành tại nước ngoài. Nếu không tiến hành đăng ký mọi tuyên bố về quốc tịch sẽ không có hiệu lực. Theo quy định tại Điều 31 BLDS (xác lập theo Pháp lệnh số 45-2441 ngày 19/10/1945) chỉ có lục sự trưởng tại Toà án sơ thẩm thẩm quyền hẹp (Tribunal d,Instance) là người có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quốc tịch Pháp cho những người chứng minh có quốc tịch này.
Sự thành công của Bộ luật dân sự Napoleon bắt đầu từ sự sáng suốt trong việc lựa chọn những người xây dựng dự thảo. Napoleon đã không tuyển chọn nhiều ngườiS, không chọn các chính trị gia mà đã chọn chỉ 4 luật gia thực hành nổi tiếng nhất lúc bấy giờ biên soạn (Tronchet, Potalis, Bigot de Preameneu, Maleville). Chính nhờ những luật gia nổi tiếng này mà Bộ luật dân sự Napoleon đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật xây dựng một bộ luật:
– Tinh thần của bộ luật phù hợp với truyền thống của dân tộc và yêu cầu của thời đại;
– Ngôn ngữ sử dụng giản dị, trong sáng, dễ hiểu, câu văn khúc chiết, tư duy lôgic;
– Kết hợp khéo léo giữa tính tổng quát và tính cụ thể làm cho Bộ luật có thể áp dụng trực tiếp mà không cần phải bình luận, giải thích hay hướng dẫn thi hành;
– Bộ luật kế thừa được những tinh tuý của Bộ luật Corpus Juris Civilis của luật La Mã cổ đại;
– Bộ luật luôn luôn được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện theo sự phát triển của các quan hệ xã hội.
– Cách thức bổ sung sửa đổi, đưa vào bộ luật những nội dung mới nhưng không phá vỡ cấu trúc và không làm thay đổi trật tự các điều luật trong bộ luật là một điều kỳ diệu, làm cho Bộ luật dân sự Napoleon sau hơn 200 tồn tại vẫn còn nguyên 2283 điều, không những vẫn giữ được những “ngôi nhà cổ của mình” mà còn làm cho “các toà nhà hiện đại mới xây dựng trên nền đất cũ cũng dễ nhận ra do tên phố và số nhà không thay đổi”.
2.3. Hệ thống cơ quan tài phán ở Pháp
Ở các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, thông thường bên cạnh hệ thống toà án tư pháp (toà án thông thường) chủ yếu áp dụng luật tư, còn có hệ thống tài phán luật công (toà án hành chính, toà án hải quan, v.v..) Chủ yếu áp dụng luật công. Các hệ thông toà án này độc lập với nhau.
2.3.1. Hệ thống toà án tư pháp (toà án thông thường)
Theo nội dung vấn đề mà toà án phải giải quyết, hệ thống toà án nước Pháp chia ra thành toà án dân sự và toà án hình sự, trên hai loại này là toà án tối cao.
Toà án dân sự được chia thành toà án dân sự thông thường và toà án dân sự đặc biệt.Toà án dân sự thường có các cấp xét xử sau đây:
Toà án dân sự đặc biệt được hiểu là các tòa chuyên trách, bao gồm: Toà án thương mại: trong đó có các quan toà không chuyên nghiệp (các thương nhân) và Toà án lao động, trong đó cũng có các quan toà không chuyên nghiệp. Chức năng của cơ quan này là giải quyết các tranh chấp lao động.
Toà án hình sự: Hệ thống toà án hình sự bao gồm toà án hình sự thông thường và toà án hình sự đặc biệt.
Toà án hình sự thông thường: Luật hình sự Pháp chia tội phạm ra 3 cấp độ: contravention – tạm dịch là vi cảnh, délit – tạm dịch là thường tội, crime – tạm dịch là trọng tội. Mỗi loại tội phạm được xét xử tại một loại toà án. Bao gồm:
Toà án vi cảnh (Tribunal de police): xét xử vi cảnh, được áp dụng hình phạt tù từ 1 ngày đến 2 tháng, hoặc phạt tiền dưới 12.000Fr. Chỉ có 1 thẩm phán duy nhất trong phiên toà.
Toà án tiểu hình (Tribunal correctionnel): xét xử thường tội, được áp dụng hình phạt tù trên 2 tháng, hoặc phạt tiền trên 12.000Fr.
Toà án tiểu hình phúc thẩm: toà án cấp phúc thẩm của cả hai loại toà án nói trên. Phiên toà được cơ cấu 1 thẩm phán và 2 cố vấn.
Toà án đại hình (Cour d’assises): xét xử trọng tội. Đây không phải là toà án thường trực (xét xử 3 tháng/ 1 lần). Trong phiên toà ngoài thẩm phán, công tố viên, còn có hội thẩm (juré). Do đó, đôi khi người ta còn gọi toà này là toà án “nhân dân” (jurisdiction populaire). Trong một số trường hợp, phiên toàn xét xử không cần hội thẩm (ví dụ như xét xủ tội phạm trong quân đội, tội khủng bố).
Toà án hình sự đặc biệt gồm có: Toà án cho vị thành niên, Toà án quân sự, Toà án an ninh quốc gia.
Trong tất cả các toà án nói trên điều có toà điều tra, với chức năng chuẩn bị cho công tác xét xử các vụ án hình sự. Nghĩa là trong hệ thống toà án này luôn có toà điều tra và toà xét xử.
Toà phá án (Cour de cassation) là toà án tối cao của Nhà nước Pháp. Toà án này chỉ xem xét tính hợp pháp của các quyết định chung thẩm của toà án cấp dưới. Khi phát hiện ra sự vi phạm pháp luật, thì có quyền và chuyển vụ việc cho toà án cấp dưới xét xử lại. Bản thân toà án không có quyền xét xử sơ thẩm các vụ việc, không phải là cấp xét xử thứ ba (tương tự như cấp giám đốc thẩm và tái thẩm ở Việt Nam). Toà án tối cao có 6 toà chuyên trách (chamber), bao gồm 3 toà dân sự, 1 toà thương mại, 1 toà về các vấn đề xã hội, 1 toà hình sự. Như vậy, thẩm quyền của toà án tư pháp tối cao của Pháp không giống toà án tối cao của Việt Nam. Toà án tối cao của Việt Nam có thẩm quyền rất rộng, được xét xử cả: sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Ở Pháp có toà án tối cao (toà án đặc biệt) để xét xử tội phạm do các quan chức cao cấp gây ra. Nhưng cho đến nay, toà này không hoạt động trên thực tế.
2.3.3. Hệ thống tài phán luật công
Ở Pháp, Hội đồng Hiến pháp là cơ quan tài phán cao nhất về trật tự Hiến pháp. Hội đồng Hiến pháp được thành lập theo Hiến pháp 1958, có các nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Hội đồng Hiến pháp bao gồm 9 thành viên, nhiệm kỳ 9 năm, và các thành viên không được bầu lại khi hết nhiệm kỳ. Trong đó, Tổng thống bầu 3 thành viên, Chủ tịch Hạ viện bầu 3 thành viên, Chủ tịch Thượng viện bầu 3 thành viên.
Theo quan điểm của các luật gia thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, Nhà nước có tư cách pháp nhân công pháp (personne morale du droit public) trong các quan hệ pháp luật. Toà án hành chính được hình thành rất sớm ở Pháp. Hệ thống toà án hành chính ở Pháp hiện nay bao gồm: toà án hành chính sơ thẩm, toà án hành chính phúc thẩm, và Tham chính viện (toà án hành chính tối cao) (Conseil d’Etat). Chức năng của nó là xem xét các quyết định không hợp pháp của các cơ quan Nhà nước, và có quyền huỷ bỏ các văn bản này. Dưới thời Louis Bonaparte, Tham chính viện có chức năng tư vấn cho cơ quan hành pháp. Ngoài việc soạn thảo luật cho nhà vua, cơ quan này còn có thẩm quyền giải quyết những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực hành chính, nghĩa là cơ quan này có thẩm quyền của thẩm phán chuyên ngành. Tham chính viện chính thức trở thành cơ quan tài phán theo luật ngày 24-5-1872 của nước Pháp. Hiến pháp năm 1958 vẫn khẳng định vai trò tư vấn của Tham chính viện. Tham chính viện kiểm tra các văn bản pháp luật của cơ quan lập pháp, hành pháp thông qua việc tư vấn cho Chính phủ. Ý kiến tư vấn này được giữ bí mật. Chỉ có Chính phủ và các Bộ thay mặt Chính phủ được phép công bố ý kiến nói trên. Bên cạnh đó, Tham chính viện có chức năng giải quyết các tranh chấp hành chính. Tham chính viện có vai trò chính trị không nhỏ. Một mặt nó bảo vệ chủ nghĩa tự do thông qua việc giải quyết kiện tụng của dân thường chống lại cơ quan Nhà nước. Mặt khác, các án lệ về vụ án hành chính phải thể hiện rõ quan điểm chính trị của Nhà nước, đặc quyền của Nhà nước trong quan hệ pháp luật.
Toà kiểm toán ở Pháp – cơ quan tài phán chuyên ngành về tài chính – xuất hiện từ thời Napoleon I (năm 1807). Theo Hiến pháp cộng hoà Pháp năm 1958, toà kiểm toán có chức năng giúp Nghị viện và Chính phủ kiểm tra việc thực hiện pháp luật về tài chính.
Sự tồn tại các loại tài phán nói trên đôi khi dẫn đến sự xung đột thẩm quyền. Thực tiễn đòi hỏi phải có một cơ quan giải quyết sự xung đột này. Ở Pháp, cơ quan đó gọi là toà án xung đột. Toà án xung đột bao gồm 1 Chánh án là Bộ trưởng tư pháp, và 8 thành viên. Toà án xung đột có thẩm quyền giải quyết những vụ việc sau đây:
Ở các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa không có hệ thống viện công tố riêng (khác với các nước theo hệ thống luật XHCN). Về mặt hình thức, các công tố viên phải nằm trong các toà án, nhưng lại không phụ thuộc vào toà án. Trong chừng mực nhất định, họ còn thực hiện việc kiểm tra hoạt động của các thẩm phán. Công tố viên có ở các cấp toà án sơ thẩm, phúc thẩm và toà phá án. Hệ thống viện công tố được tổ chức và hoạt động rất chặt chẽ theo nguyên tắc tập trung. Hoạt động xét xử của các toà án Pháp rất coi trọng hoạt động luận tội của công tố viên. Công tố viên có rất nhiều quyền hạn trong phiên toà. Chủ tịch phiên toà không có quyền cản trở hoạt động của công tố viên, không có quyền loại bỏ các câu hỏi chất vấn của công tố viên đối với mọi thành viên tham gia xét xử. Toà án phải thực hiện những đòi hỏi của công tố viên về chứng cứ mới, hoặc người làm nhân chứng mới. Viện công tố có chức năng công bố để bảo vệ quyền lợi chung của xã hội.
Ở các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, một luật gia có thể được đào tạo theo các hướng sau đây: trở thành quan toà (thẩm phán, công tố viên, v.v..), công chứng viên, cố vấn pháp lý trong các công sở, doanh nghiệp, luật sư, trọng tài viên, giáo sư luật ở các trường đại học (thường là người có học vị tiến sĩ), v.v.. Trong đó giáo sư luật rất được tôn trọng. Còn ở các nước common law, thẩm phán là loại nghề được chú ý nhất trong giới luật.
Hiện nay ở Đức, các sinh viên luật sau khi tốt nghiệp rất ít có cơ hội được tuyển vào làm thẩm phán, do công việc này có ít nhu cầu bổ sung. Bên cạnh đó, biên chế trong các cơ quan công tố và cơ quan hành chính nhà nước luôn có giới hạn. Tình trạng này làm cho số người chọn nghề luật sư để kiếm sống ngày càng tăng. Điều này là điểm khác biệt so với nghề thẩm phán ở Pháp.
Ở Pháp, nghề thẩm phán là một công việc thuộc hệ thống các cơ quan của nhà nước, còn nghề luật sư là nghề tự do nên hai nghề nghiệp này có sự cân bằng đáng kể về nhu cầu số lượng người hành nghề hơn ở Đức. Hiện nay ở Pháp, cơ hội làm thẩm phán của những người tốt nghiệp đào tạo thẩm phán là cao hơn ở Đức.
Trong một số trường hợp, thẩm phán có thể không phải là luật gia. Ví dụ như trường hợp một số toà án khu vực nông thôn của Thuỵ Sĩ, hoặc toà án thương mại của Pháp. Ở toà thương mại của Đức, khi xét xử có 3 thẩm phán mà 2 trong số đó là các thương nhân. Ở một số nước có cơ chế hội thẩm tham gia xét xử. Ví dụ như trường hợp toà đại hình của Pháp (Cour d’assises), toà dân sự của Thuỵ Điển.
Thẩm phán đóng vai trò quyết định trong quá trình xét xử. Thẩm phán có trong tay toàn bộ tài liệu về quá trình điều tra, là người đặt câu hỏi cho những người tham gia phiên toà. Vị trí của luật sư gỡ tội rất lu mờ. Luật sư chỉ được phát biểu khi chủ toạ phiên toà cho phép. Ở một số nước theo hệ thống này, thẩm phán còn phải làm nhiệm vụ điều tra, hoặc đánh giá sự cần thiết đưa vụ án ra xét xử (thông thường, đây là chức năng của viện công tố).
Nghề luật sự đã tồn tại từ thời La Mã cổ đại, được phát triễn từ thế kỷ XIII. Vào thời kỳ này, luật sư làm việc để bảo vệ công lý, danh dự mà không cần thù lao. Vua Louis IX của nước Pháp đã phong tặng nghề luật sư danh hiệu “nghề hiệp sĩ”. Sau này, luật sư đã nhận quà tạ ơn từ thân chủ của mình. Đến thời hiện đại, luật sư được phép hưởng thù lao. Nghề luật sư đã dần dần trở thành nghề dịch vụ, nhưng nó vẫn được đánh giá là “dịch vụ quý tộc”, và đây là một nghề danh giá.
Pháp là một nước có nền dân chủ lâu đời, một nền kinh tế thị trường phát triển, một nền pháp chế hoàn thiện. Số luật sư ở Pháp rất đông, riêng đoàn Luật sư Paris có trên 1, 5 vạn người, Đoàn nhỏ cũng có khoảng vài trăm luật sư. Để đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, việc đào tạo nghề nghiệp cho luật sư rất được chú trọng và được tổ chức chặt chẽ. Trước tiên, luật sư được đào tạo ở Trung tâm đào tạo luật sư. Sau khi tốt nghiệp, Trung tâm vẫn giám sát việc tập sự của luật sư và đào tạo thường xuyên về nghề nghiệp cho luật sư. Người muốn vào nghề luật sư phải có bằng Đại học luật hoặc tương đương và trải qua một kỳ thi tuyển. Thời gian học là 1 năm. Một số người có thể được miễn học tập ở Trung tâm như Giáo sư luật, Tiến sỹ luật, người đã có nhiều năm làm Thẩm phán, Kiểm sát viên, Công chứng viên do pháp luật quy định. Các học viên được đào tạo về lý luận và thực tiễn hành nghề luật sư. Chương trình học do Uỷ ban quản lý Trung tâm khu vực quy định với sự nhất trí của Hội đồng quốc gia luật sư và báo cáo với Bộ Tư pháp. Nội dung chương trình chủ yếu là nghiên cứu điều lệ và đạo đức luật sư, thảo các văn bản, bào chữa trước toà, thực hành các thủ tục tố tụng, quản lý một văn phòng luật sư, học một ngoại ngữ. Người tốt nghiệp sẽ được cấp chứng chỉ khả năng hành nghề luật sư.
Để trở thành một luật sư thực thụ, người đã có chứng chỉ khả năng hành nghề luật sư phải gia nhập một Đoàn luật sư, tuyên thệ trước Toà án phúc thẩm và phải ghi tên vào danh sách những người tập sự thuộc Trung tâm khu vực đào tạo nghề nghiệp, thời gian tập sự là 2 năm. Trung tâm khu vực quy định những yêu cầu của luật sư tập sự, những việc phải giao cho học viên và giám sát thực hiện. Trung tâm lập danh sách những luật sư hướng dẫn, luật sư được giao nhiệm vụ không được từ chối. Các luật sư tập sự bên cạnh một luật sư, một người chuyên nghề nghiệp pháp lý, một chuyên gia kinh tế trong cơ quan pháp chế có từ 3 luật gia trở lên hoặc có thể tập sự ở một cơ quan công quyền. Ngoài ra, hàng năm, Trung tâm khu vực đào tạo nghề nghiệp luật sư còn tổ chức bồi dưỡng cho luật sư về các đề tài pháp lý mới hoặc về thực tiễn.
Ở Đức, các luật sư được đào tạo công phu theo chương trình đặc biệt. Họ phải học tập nghiên cứu lý thuyết ít nhất 3 năm rưỡi, sau đó phải qua kỳ thi và thời kỳ tập sự 30 tháng, sau đó lại là một kỳ thi thứ hai. Luật sư và khách hàng có thể thoã thuận giá cả thù lao do pháp luật quy định, nhưng không thể thấp hơn. Trong hệ thống luật Đức, bên thua kiện trong một vụ tranh chấp có nghĩa vụ trả thù lao cho luật sư của bên thắng kiện.
Hoạt động của luật sư ở các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa không giống như luật sư ở các nước theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ. Bởi vì khi xét xử, các thẩm phán ở các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa có vai trò rất tích cực. Mặc dù pháp luật xác định rõ thủ tục tranh luận tại phiên toà, nhưng trên thực tế đa số các vụ kiện đã được giải quyết trước khi luật sư có mặt tại phiên toà để tranh luận bằng lời.
Cần lưu ý là: ở Pháp, bên cạnh nghề luật sư “tư” (avocet), còn có luật sư “công” (avoué).
Vị trí của pháp luật Scandinavi trong pháp luật thế giới
Xem xét về mặt địa lý, các nước Scandinavi nằm gần các nước thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, tuy nhiên nghiên cứu pháp luật của nhóm các nước Bắc Âu cho thấy pháp luật của các nước này có những đặc điểm đặc thù riêng mặc dù về cơ bản nó vẫn chịu ảnh hưởng tư duy pháp lý của hệ thống châu Âu lục địa là chủ yếu. Chính vì vậy nên phần lớn các nhà nghiên cứu cho rằng pháp luật Scandinavi là một dạng đặc thù của Hệ thống pháp luật Civil law. Trên thực tế pháp luật Scandinavi đã được xây dựng và phát triển tuân theo nguyên tắc tính tối cao của đạo luật. Cũng giống như pháp luật thuộc Hệ thống pháp luật Civil law, trong pháp luật các nước Scandinavi các quy phạm pháp luật có tính trừu tượng và khái quát cao.
Bên cạnh quan điểm cho rằng pháp luật các nước Scandinavi thuộc Hệ thống pháp luật Civil law không ít các nhà nghiên cứu lại bảo vệ vị trí “trung gian “ của nhóm pháp luật các nước này. Có điều này là vì nó có tính thực tiễn hơn so với pháp luật Civil law. Thực tiễn pháp lý đóng một vai trò quan trọng trong nhóm pháp luật này. Tuy nhiên, dù thực tiễn pháp lý có một vị trí đáng kể trong nguồn luật nhưng pháp luật các nước Scanidinavi lại không có những dấu hiệu đặc trưng của Hệ thống thông luật như: quy tắc án lệ, kỹ thuật của những sự khác biệt, vai trò đặc biệt của pháp luật tố tụng.
Pháp luật các nước Scandinavi có lịch sử hình thành độc đáo. Mặc dù nằm trong Châu Âu nhưng trong một chừng mực nhất định nó không chịu sự chi phối của các nhân tố tồn tại ở Châu Âu lục địa. Đối với sư phát triển lịch sử của các nước Bắc Âu có các đặc điểm riêng, cụ thể: tính không phát triển tương đối của thứ bậc quản lý; sự hiện có các nông dân tự do; sự hiện có các hình thức dân chủ trong việc cân nhắc các lợi ích của các tầng lớp dân cư khác nhau trong phạm vi của sự nắm quyền tôn giáo. Chính vì những đặc thù này đã dẫn đến việc hình thành sớm Nhà nước tập quyền và pháp luật thống nhất ở khu vực này.
Bắt đầu từ thế kỷ XIII, ở Thụy Điển đã tiến hành những hoạt động nhằm nhất thể hóa pháp luật. Vào giữa thế kỷ XIV đã ban hành hai đạo luật để điều chỉnh quan hệ ở nông thôn và quan hệ ở thành phố. Hai đạo luật này có hiệu lực trong khoảng thời gian 400 năm. Trong khoảng thời gian có hiệu lực chúng đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần và Tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc làm cho các đạo luật này trở nên thích nghi trong xã hội mới.
Thế kỷ XVIII Thụy Điển đã tiếp nhận nhiều cấu trúc và các nguyên tắc của pháp luật La Mã trong thực tiễn xét xử, do đó các yếu tố của Luật La Mã đã trở thành một bộ phận quan trọng của pháp luật Thụy Điển và văn hóa pháp lý Thụy Điển.
Lịch sử gắn bó của các nước Bắc Âu đã được phản ánh rõ nét trong pháp luật. Với sự kiện hợp nhất (dù chỉ là tạm thời) của ba vương quốc: Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển với tư cách là một liên minh (1397 – 1523) đã kết nối khu vực này trên tất cả các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa vững chắc trong nhiều thế kỷ.
Thế kỷ XVII – XVIII Phần Lan bị Thụy Điển xâm chiếm và thuộc bộ phận cấu thành của đế chế Thụy Điển cho đến năm 1809 với việc thất bại của Thụy Điển trong cuộc chiến tranh với người Nga và Thụy Điển đã cắt Phần Lan cho Nga coi đó là phí tổn bồi thường chiến tranh. Sau Cách mạng Tháng mười năm 1917, V.I. Lê Nin đã ký sắc lệnh trao cho Phần Lan quyền độc lập, sự kiện này đã làm cho việc thống nhất pháp luật của Phần Lan với Thụy Điển trở nên bền chặt hơn.
Đan Mạch, Na Uy và Iceland chịu sự quản lý tập trung của Vương quốc Đan Mạch hơn bốn thế kỷ, từ cuối thế kỷ XIV, vì thế pháp luật của Đan Mạch chi phối pháp luật của Na Uy và Iceland.
Pháp luật nước Đức cổ là cơ sở chung cho pháp luật các nước Scandinavi. Tuy nhiên, trong mỗi quốc gia, đặc điểm riêng của dân tộc cũng được phản ánh vào trong pháp luật. Từ thế kỷ XII, pháp luật nước Đức cổ được đưa vào nhiều đạo luật về đất đai và sau đó là các đạo luật điều chỉnh quan hệ thành phố. Quá trình nhất thể hóa pháp luật được tiến hành nagy từ những văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên của chính quyền tập trung. Vào thế kỷ XIV ở Thụy Điển đã thành công trong việc thống nhất pháp luật các địa phương, cụ thể ở nông thôn đã ban hành được pháp luật về đất đai thống nhất, còn pháp luật các dân tộc được thống nhất thành pháp luật thành phố thống nhất.
Trong vòng từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, mốc quan trọng đánh dấu điểm xuất phát của sự hình thành pháp luật các nước Scandinavi là hai văn bản: Bộ luật của Quốc vương cơ đốc giáo V (Danske Lov) ban hành ở Đan Mạch năm 1683 (bắt đầu có hiệu lực từ năm 1687 ở Na Uy dưới tên gọi là Pháp luật Na Uy), văn bản thứ hai là Bộ tổng luật của Nhà nước Thụy Điển năm 1734 “Sveriges rikes Lag”.
Hai đạo luật trên đã tồn tại qua một thời gian rất dài đã chỉ ra một cách rõ ràng rằng cùng với thời gian trôi qua đạo luật được áp dụng ngày càng ít hơn và dần dần không còn có hiệu lực nói chung do áp lực của thực tiễn án lệ được phát triển trên cơ sở của đạo luật đó.
3.1.2. Các đặc trưng cơ bản của pháp luật các nước Scandinavi.
Pháp luật các nước Scanidinavi có thể phân thành hai nhóm Nhóm thứ nhất bao gồm Đan Mạch, Na Uy và Iceland vì pháp luật các nước này, xét về mặt lịch sử được phát triển hầu như trên cơ sở của pháp luật Đan Mạch và của Na Uy đã được thực hiện từ nửa sau thế kỷ XVII. Nhóm thứ hai gồm có pháp luật của Thụy Điển và Phần Lan. Tuy nhiên, giữa hai nhóm này có sự thâm nhập lẫn nhau, điều này là do những nguyên nhân sau:
Mặc dù vậy, trong pháp luật các nước Scanidinavi vẫn có rất nhiều điểm tương đồng với Hệ thống pháp luật Rô man- Giéc manh, cụ thể:
Bên cạnh những điểm tương đồng như đã nêu ở trên pháp luật các nước Scanidinavi lại có rất nhiều những điểm khác biệt với Hệ thống pháp luật Civil law, cụ thể:
Pháp luật các nước Scandinavi sử dụng các loại nguồn:
Đạo luật: Đây là loại nguồn chủ yếu , mặc dù pháp luật các nước này không được pháp điển hóa theo các ngành luật nhưng phần lớn các quy phạm pháp luật được soạn thảo một cách chi tiết.
Tập quán: Trong các nước này, tập quán được hiểu là “quy phạm pháp luật không thành văn” có hiệu lực trong thực tiễn xã hội. Nhìn chung, việc áp dụng tập quán là hết sức hạn chế. Tuy vậy, trong các lĩnh vực như thương mại, hàng hải thông thường tập quán lại đóng một vai trò quan trọng. Phần lớn các tập quán có hiệu lực tại các địa phương thường được các phòng thương mại đại phương khái quát và công bố.
Thực tiễn xét xử: Trong thực tế, thực tiễn xét xử cũng có một vị trí đáng kể trong các loại nguồn. Tuy vậy ở các nước này chỉ dành cho tòa án vai trò của những người giải thích pháp luật. Song ở tại đây không có khái niệm án lệ như tồn tại trong hệ thống Thông luật. Các quy phạm pháp luật do thực tiễn xét xử xây dựng không ổn định và có thể gạt bỏ hoặc thay đổi bất kỳ khi nào khi có vụ việc mới.