Tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng 6 tháng đầu năm 2022 có nhiều khởi sắc. Dịch bệnh Covid-19 đã được kiểm soát, hoạt động sản xuất, kinh doanh dần trở lại bình thường. Nhiều ngành, lĩnh vực có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ như: sản xuất công nghiệp, hàng qua cảng, thu ngân sách, thu hút FDI, thu hút khách du lịch bước đầu phục hồi và tăng trưởng; doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng cả về số doanh nghiệp và số vốn đăng ký. Các chính sách an sinh xã hội được triển khai kịp thời, có hiệu quả; tình hình chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của căng thẳng địa chính trị, gián đoạn chuỗi cung ứng trên thế giới làm giá hàng hóa, nguyên vật liệu tăng cao khiến kinh tế Hải Phòng chịu ảnh hưởng không nhỏ. Kết quả 6 tháng đầu năm 2022 đạt được như sau:
Tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng 6 tháng đầu năm 2022 có nhiều khởi sắc. Dịch bệnh Covid-19 đã được kiểm soát, hoạt động sản xuất, kinh doanh dần trở lại bình thường. Nhiều ngành, lĩnh vực có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ như: sản xuất công nghiệp, hàng qua cảng, thu ngân sách, thu hút FDI, thu hút khách du lịch bước đầu phục hồi và tăng trưởng; doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng cả về số doanh nghiệp và số vốn đăng ký. Các chính sách an sinh xã hội được triển khai kịp thời, có hiệu quả; tình hình chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của căng thẳng địa chính trị, gián đoạn chuỗi cung ứng trên thế giới làm giá hàng hóa, nguyên vật liệu tăng cao khiến kinh tế Hải Phòng chịu ảnh hưởng không nhỏ. Kết quả 6 tháng đầu năm 2022 đạt được như sau:
Trong 6 tháng đầu năm 2022, đã tiếp nhận 95 người vào Trung tâm nuôi dưỡng Bảo trợ xã hội. Tổng số lượng các đối tượng tại các cơ sở trợ giúp xã hội là 738 người (bằng 101,37% so với cùng kỳ năm ngoái). Tập trung người lang thang trên địa bàn thành phố đạt 160 lượt người (giảm 30% so với cùng kỳ năm trước. Thực hiện chính sách hỗ trợ hộ nghèo vay vốn từ ngân hàng Chính sách xã hội: tổng dư nợ vốn vay học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo đạt 86.662 triệu đồng với 2.792 học sinh, sinh viên được vay vốn; tổng dư nợ hộ nghèo đạt 161.136 triệu đồng với 4.167 hộ nghèo; tổng dư nợ hộ cận nghèo đạt 1.253.611 triệu đồng với 30.327 hộ cận nghèo; tổng dư nợ hộ mới thoát nghèo đạt 524.201 triệu đồng với 12.766 hộ mới thoát nghèo. Hỗ trợ tiền điện cho 8.717 hộ nghèo với tổng số tiền tương đương 2.876 triệu đồng.
Trong 6 tháng đầu năm 2022, tổ chức tiếp nhận, cai nghiện ma túy tập trung cho 1.141 lượt người (bằng 67,92% so với cùng kỳ năm trước); cai nghiện tại gia đình và cộng đồng cho 107 người (bằng 125,88% so với cùng kỳ năm trước).
Công tác giáo dục: Trong tháng 6/2022, thành phố đã tổ chức thành công kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2022-2023, công tác tổ chức kỳ thi tại 100% Hội đồng coi thi được triển khai đúng quy định, diễn ra an toàn và nghiêm túc, kỷ luật thi được siết chặt, các trường hợp vi phạm quy chế đều được xử lý nghiêm, các phương án bảo đảm an toàn trong thi cử được thực hiện nghiêm ngặt.
Công tác y tế dự phòng: Trong 6 tháng đầu năm 2022, tình hình dịch bệnh Covid-19 của thành phố diễn biến phức tạp gây ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng, đời sống an sinh xã hội và tình hình kinh tế chung của toàn thành phố.
Tính đến ngày 25/6/2022, số ca hồi phục xuất viện là 325.208 ca; đang điều trị là 336 ca; số ca tử vong là 156 ca.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Trong 6 tháng đầu năm 2022, thực hiện 07 đợt kiểm tra, trong đó: 03 đợt kiểm tra định kỳ là Tết Nguyên đán, Bếp ăn tập thể, Tháng hành động an toàn thực phẩm; 04 đợt kiểm tra đột xuất. Kiểm tra được 234 cơ sở, trong đó: số cơ sở đạt là 188 cơ sở, số cơ sở vi phạm là 12 cơ sở; xử lý và phạt tiền 94,3 triệu đồng.
Số cơ sở được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP là 130 cơ sở. Hồ sơ tự công bố là 50 bộ; cấp giấy công bố sản phẩm: 6 giấy. Trong tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2022, không có vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra.
Công tác phòng chống HIV/AIDS: Ước tính 6 tháng đầu năm 2022, lũy tích người nhiễm HIV là 11.589 người; lũy tích số người chuyển sang AIDS là 6.347 người; lũy tích số người chết do AIDS là 5.379 người; số người nhiễm HIV hiện còn sống là 6.210 người.
Tính đến tháng 6/2022, Ngành y tế đang điều trị Methadone cho 2.759 bệnh nhân; đề án Thí điểm cấp phát thuốc Methadone nhiều ngày đã cấp cho 454 bệnh nhân tại 05 cơ sở điều trị.
Công tác văn hóa - thể thao: Thành phố đã tổ chức các Chương trình, Hội nghị theo kế hoạch công tác như: sơ kết công tác văn hóa, gia đình và thể dục thể thao năm 2022; phát động Cuộc thi sáng tác biểu tượng thành phố Hải Phòng tại Thành phố Hồ Chí Minh; sơ kết công tác triển khai thực hiện chương trình sân khấu truyền hình 6 tháng đầu năm và phương hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2022; tổng kết các công tác tổ chức các hoạt động chào mừng các sự kiện trong tháng 5 năm 2022 và Lễ hội Hoa Phượng Đỏ - Hải Phòng 2022.
Trong 6 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 32 vụ tai nạn giao thông đường bộ, 01 vụ tai nạn giao thông đường sắt. Các vụ tai nạn giao thông làm chết 31 người và bị thương 04 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 06 vụ với cùng kỳ năm ngoái (tương ứng giảm 15,38%), số người chết giảm 01 người so với cùng kỳ năm ngoái (tương ứng giảm 3,13%) và số người bị thương giảm 16 người năm ngoái (tương ứng giảm 80%).
e) Thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ
Trong 6 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 32 vụ cháy, giảm 14 vụ so với cùng kỳ năm trước (tương ứng giảm 30,43%), làm 01 người chết, không có người bị thương, nguyên nhân các vụ cháy chủ yếu do tình trạng bất cẩn trong cách sử dụng các thiết bị có nguy cơ cháy, nổ cao; một số vụ cháy thảm thực bì rừng gây thiệt hại ước tính là 8,1 ha, các vụ cháy khác đang trong quá trình điều tra, xác định giá trị thiệt hại về tài sản./.
1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
– GDP quý II năm 2022 ước tính tăng 7,72% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng của quý II các năm trong giai đoạn 2011-2021[1].
– GDP 6 tháng đầu năm 2022 tăng 6,42%, cao hơn tốc độ tăng 2,04% của 6 tháng đầu năm 2020 và tốc độ tăng 5,74% của 6 tháng đầu năm 2021 nhưng thấp hơn tốc độ tăng 7,28% và 6,98% của cùng kỳ năm 2018 và 2019. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,78% (đóng góp 5,07%); khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,70%, (đóng góp 48,33%), trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 9,66%; khu vực dịch vụ tăng 6,60%, (đóng góp 46,60%).
– Về cơ cấu nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,05%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 39,30%; khu vực dịch vụ chiếm 40,63%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,02%.
Về sử dụng GDP 6 tháng đầu năm 2022, tiêu dùng cuối cùng tăng 6,06% so với cùng kỳ năm 2021; tích lũy tài sản tăng 3,92%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 9,10%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 4,41%.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
– Lúa đông xuân: Diện tích gieo cấy cả nước năm nay đạt 2.992 nghìn ha, bằng 99,5% vụ đông xuân năm trước; năng suất ước đạt 66,7 tạ/ha, giảm 1,9 tạ/ha[2]; sản lượng ước đạt 19,97 triệu tấn, giảm 661,3 nghìn tấn.
– Lúa hè thu: Cả nước đã xuống giống được 1.829,5 nghìn ha, bằng 99,5% cùng kỳ năm trước. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã có 174,4 nghìn ha diện tích lúa hè thu sớm cho thu hoạch, chiếm 12,1% diện tích xuống giống.
– Cây hàng năm: Tính đến trung tuần tháng 6/2022 diện tích gieo trồng rau, đậu là 740,7 nghìn ha, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, diện tích ngô, lạc, đậu tương và khoai lang tiếp tục giảm so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do hiệu quả kinh tế không cao.
– Cây lâu năm: Tổng diện tích cây lâu năm hiện có ước tính đạt 3.690,4 nghìn ha, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó: Nhóm cây công nghiệp đạt 2.206,9 nghìn ha, tăng 0,8%; nhóm cây ăn quả đạt 1.177,5 nghìn ha, tăng 2,2%. Sản lượng của một số cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả tăng. Riêng sản lượng điều đạt 321,9 nghìn tấn, giảm 16,5% so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng của mưa trái mùa trong thời gian ra hoa làm bông điều bị hỏng không kết trái; thanh long đạt 606,8 nghìn tấn, giảm 7,4% do giá bán thanh long giảm nên nông dân giảm diện tích trồng.
– Chăn nuôi phát triển ổn định, chăn nuôi lợn và gia cầm đang hồi phục do dịch bệnh kiểm soát tốt, tổng số lợn đến thời điểm cuối tháng 6/2022 ước tính tăng 3,8% so với cùng thời điểm năm 2021; gia cầm tăng 1,2%; tổng số bò tăng 2,2%; tổng số trâu giảm 1,4%.
Diện tích rừng trồng tập trung 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 119,4 nghìn ha, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt gần 47 triệu cây, tăng 6%; sản lượng củi khai thác đạt 9,5 triệu ste, tăng 0,6%; sản lượng gỗ khai thác đạt 8.488,2 nghìn m3, tăng 5,9%. Hoạt động khai thác gỗ 6 tháng đầu năm 2022 tăng chủ yếu do nhu cầu sản xuất, chế biến và xuất khẩu gỗ tăng cao, bên cạnh đó giá xăng dầu leo cao, chi phí vận chuyển lớn nên các doanh nghiệp chế biến gỗ đã chủ động tìm kiếm nguồn nguyên liệu trong nước từ đó thúc đẩy hoạt động khai thác gỗ phát triển. Về thiệt hại rừng, trong 6 tháng đầu năm 2022 cả nước có 588 ha diện tích rừng bị thiệt hại, giảm 24,9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Diện tích rừng bị cháy 27,7 ha, giảm 88,1%; diện tích rừng bị phá 560,3 ha, tăng 2%.
Nuôi trồng thủy sản tăng trưởng tốt do nhu cầu tiêu dùng và giá xuất khẩu tăng; tuy nhiên sản lượng thủy sản khai thác biển giảm do giá xăng dầu tăng cao, nhiều tàu cá nằm bờ. Sản lượng thủy sản quý II/2022 ước đạt 2.333,3 nghìn tấn, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 1.659,3 nghìn tấn, tăng 1,7%; tôm đạt 339,5 nghìn tấn, tăng 11,5%; thủy sản khác đạt 334,5 nghìn tấn, tăng 1,3%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, sản lượng thủy sản ước đạt 4.196,8 nghìn tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 3.044,4 nghìn tấn, tăng 1,7%; tôm đạt 520 nghìn tấn, tăng 9,4%; thủy sản khác đạt 632,4 nghìn tấn, tăng 1,2%.
– Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2022 ước tính tăng 8,48% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 6,97%; quý II tăng 9,87%). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,66% (quý I tăng 7,72%; quý II tăng 11,45%), đóng góp 2,58 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
– Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 6 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ năm trước của một số ngành trọng điểm tăng cao: Sản xuất trang phục tăng 23,3%; sản xuất thiết bị điện tăng 22,2%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 17,5%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 13,1%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 11,4%; khai thác quặng kim loại, sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học cùng tăng 11,2%. Có 61 địa phương có chỉ số IIP tăng, riêng tỉnh Hà Tĩnh và Trà Vinh giảm do ngành sản xuất điện giảm[3].
– Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 6 tháng đầu năm 2022 tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2021 (cùng kỳ năm 2021 tăng 9,2%).
– Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/6/2022 tăng 6,1% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 14,1% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 29,5%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân 6 tháng đầu năm 2022 là 78% (bình quân 6 tháng đầu năm 2021 là 92%).
– Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/6/2022 tăng 1,3% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 5,8% so với cùng thời điểm năm trước.
a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp
– Trong tháng Sáu, cả nước có gần 13,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, giảm 0,7% so với tháng trước; tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước. Cả nước còn có gần 2,3 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 56,7% so với tháng trước và giảm 53,7% so với cùng kỳ năm trước; có 5.129 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 3,3% và tăng 32,6%; có 5.148 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 23,0% và giảm 1,7%; có 1.687 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 26,0% và giảm 12,1%.
– Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, cả nước có 76,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước; gần 40,7 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 55,6%; 50,9 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 43,0%; gần 24,1 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 2,4%; 8,6 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 13,6%. Bình quân một tháng có 19,5 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động và có 13,9 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
– Kết quả điều tra trong quý II/2022 cho thấy: Có 78,4% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và tốt hơn so với quý I/2022; có 21,6% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn.
– Dự kiến quý III/2022, có 85,0% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ ổn định và tốt lên so với quý II/2022; có 15,0% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn.
a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Sáu năm 2022 ước đạt 471,8 nghìn tỷ đồng, tăng 1,4% so với tháng trước và tăng 27,3% so với cùng kỳ năm trước; quý II/2022 ước đạt 1.395,1 nghìn tỷ đồng, tăng 5,5% so với quý trước và tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước; 6 tháng ước đạt 2.717 nghìn tỷ đồng, tăng 11,7% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,9% (cùng kỳ năm 2021 tăng 1,9%).
b) Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách tháng Sáu khôi phục mạnh mẽ với số lượt hành khách vận chuyển tăng 80,1% và luân chuyển tăng 125,8% do nhu cầu đi lại, du lịch của người dân tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Vận tải hàng hóa tiếp tục phát triển tích cực với tốc độ tăng 29% về vận chuyển và tăng 36,3% về luân chuyển so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, vận chuyển hành khách tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước, luân chuyển hành khách tăng 15,2% và vận chuyển hàng hóa tăng 8,6%, luân chuyển hàng hóa tăng 16%.
Doanh thu hoạt động viễn thông quý II/2022 ước đạt 84,4 nghìn tỷ đồng, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,1%). Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, doanh thu hoạt động viễn thông ước đạt 168,4 nghìn tỷ đồng, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,9%).
Khách quốc tế đến Việt Nam tháng Sáu đạt 236,7 nghìn lượt người, tăng 36,8% so với tháng trước và gấp 32,9 lần so với cùng kỳ năm trước do Việt Nam đã mở cửa du lịch, các đường bay quốc tế được khôi phục trở lại. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, khách quốc tế đến nước ta đạt 602 nghìn lượt người, gấp 6,8 lần so với cùng kỳ năm trước nhưng vẫn giảm 92,9% so với cùng kỳ năm 2019, năm chưa xảy ra dịch Covid-19.
II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
1. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, thị trường chứng khoán
– Tính đến thời điểm 20/6/2022, tổng phương tiện thanh toán tăng 3,3% so với cuối năm 2021 (cùng thời điểm năm 2021 tăng 3,48%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 3,97% (cùng thời điểm năm 2021 tăng 3,13%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 8,51% (cùng thời điểm năm 2021 tăng 5,47%).
– Thị trường bảo hiểm duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định, doanh thu phí toàn thị trường bảo hiểm 6 tháng đầu năm ước tính tăng 14% so với cùng kỳ năm trước.
– Trên thị trường cổ phiếu, tính đến ngày 27/6/2022, chỉ số VNIndex đạt 1.202,82 điểm, giảm 7% so với cuối tháng trước và giảm 19,7% so với cuối năm 2021. Tính đến ngày 15/6/2022, mức vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 6.339 nghìn tỷ đồng, giảm 18,4% so với cuối năm 2021; giá trị giao dịch bình quân đạt 19.563 tỷ đồng/phiên, tăng 10% so với tháng trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, giá trị giao dịch bình quân đạt 26.649 tỷ đồng/phiên, tăng 0,2% so với bình quân năm trước.
– Trên thị trường trái phiếu, tính đến ngày 15/6/2022, giá trị giao dịch bình quân đạt 7.718 tỷ đồng/phiên, giảm 0,9% so với tháng trước; tính chung 6 tháng đầu năm 2022, giá trị giao dịch bình quân đạt 10.986 tỷ đồng/phiên, giảm 3,7% so với bình quân năm 2021.
– Trên thị trường chứng khoán phái sinh, tính đến ngày 15/6/2022, khối lượng giao dịch bình quân sản phẩm hợp đồng tương lai trên chỉ số VN30 đạt 290.591 hợp đồng/phiên, giảm 9% so với tháng trước; tính chung 6 tháng đầu năm 2022 đạt 197.150 hợp đồng/phiên, tăng 4% so với bình quân năm trước.
– Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm ước đạt 192,2 nghìn tỷ đồng, bằng 35,3% kế hoạch năm và tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 bằng 34,8% và tăng 11,9%).
– Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/6/2022 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 14,03 tỷ USD, giảm 8,1% so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 6 tháng đầu năm 2022 ước tính đạt 10,06 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước, đây là mức tăng cao nhất của 6 tháng đầu năm trong 5 năm qua.
– Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 6 tháng đầu năm 2022 có 57 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 300,9 triệu USD, gấp 2,1 lần so với cùng kỳ năm trước[4]; có 14 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh tăng 44,9 triệu USD, giảm 88,9%[5].
– Lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm 2022 đạt 932,9 nghìn tỷ đồng, bằng 66,1% dự toán năm.
– Lũy kế 6 tháng đầu năm 2022, tổng chi ngân sách Nhà nước ước đạt 713 nghìn tỷ đồng, bằng 40% dự toán năm.
4. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ
+ Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 6/2022 ước đạt 32,65 tỷ USD, tăng 5,6% so với tháng trước; quý II/2022 ước đạt 96,8 tỷ USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm trước và tăng 8,7% so với quý I/2022; 6 tháng ước đạt 185,94 tỷ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước.
+ Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2022, nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm nhiều nhất với 88,7%.
+ Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 6/2022 ước đạt 32,37 tỷ USD, giảm 0,8% so với tháng trước; quý II/2022 ước đạt 97,6 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước và tăng 11,3% so với quý I/2022; 6 tháng ước đạt 185,23 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước.
+ Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2022, nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm nhiều nhất với 94%.
– Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2022, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 55,9 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 61,3 tỷ USD.
– Cán cân thương mại hàng hóa: Sơ bộ tháng Năm nhập siêu 1,7 tỷ USD[6]; 5 tháng đầu năm xuất siêu 434 triệu USD; tháng Sáu ước tính xuất siêu 276 triệu USD. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 710 triệu USD (cùng kỳ năm trước nhập siêu 1,86 tỷ USD).
Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 4,3 tỷ USD, tăng 81,8% so với cùng kỳ năm 2021; kim ngạch nhập khẩu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 12,3 tỷ USD, tăng 22,3%. Nhập siêu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2022 là 8 tỷ USD (trong đó phí dịch vụ vận tải và bảo hiểm hàng hóa nhập khẩu là 4,6 tỷ USD).
a) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
– Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2022 tăng 0,69% so với tháng trước; tăng 3,18% so với tháng 12/2021 và tăng 3,37% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân quý II/2022 tăng 2,96% so với quý II/2021. Bình quân 6 tháng đầu năm, CPI tăng 2,44% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 1,25%.
– Chỉ số giá vàng tháng 6/2022 giảm 1,14% so với tháng trước; tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2021; bình quân 6 tháng đầu năm 2022 tăng 6,63%.
– Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 6/2022 tăng 0,72% so với tháng trước và tăng 1,23% so với cùng kỳ năm 2021; bình quân 6 tháng đầu năm 2022 giảm 0,2%.
– Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý II/2022 tăng 1,84% so với quý trước và tăng 2,18% so với cùng kỳ năm trước; 6 tháng tăng 1,38% so với cùng kỳ năm trước.
– Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp quý II/2022 tăng 2,1% so với quý trước và tăng 5,11% so với cùng kỳ năm trước; 6 tháng tăng 4,75%.
– Chỉ số giá sản xuất dịch vụ quý II/2022 tăng 1,25% so với quý trước và tăng 3,57% so với cùng kỳ năm trước; 6 tháng tăng 2,83%.
– Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất quý II/2022 tăng 2,23% so với quý trước và tăng 6,38% so với cùng kỳ năm trước; 6 tháng tăng 6,04%.
c) Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa
– Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa quý II/2022 tăng 3,31% so với quý trước và tăng 8,56% so với cùng kỳ năm trước; 6 tháng tăng 8,03% so với cùng kỳ năm trước.
– Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá quý II/2022 tăng 2,62% so với quý trước và tăng 11,43% so với cùng kỳ năm trước; 6 tháng tăng 11,21%.
– Tỷ giá thương mại hàng hóa[7] quý II/2022 tăng 0,67% so với quý trước và giảm 2,57% so với cùng kỳ năm trước; 6 tháng giảm 2,85%.
– Lao động 15 tuổi trở lên của cả nước có việc làm trong quý II/2022 ước tính là 50,5 triệu người; 6 tháng là 50,3 triệu người.
– Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động của cả nước quý II/2022 ước tính là 2,32%; 6 tháng là 2,39%.
– Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) của cả nước quý II/2022 ước tính là 7,63%; 6 tháng là 7,78%.
– Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động của cả nước quý II/2022 ước tính là 1,96%; 6 tháng là 2,48%.
– Thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương quý II/2022 là 7,5 triệu đồng/tháng, tăng 178 nghìn đồng so với quý trước và tăng 707 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương ước tính là 7,4 triệu đồng/tháng, tăng 417 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước.
2. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
Công tác an sinh xã hội được triển khai tích cực, đời sống người dân được đảm bảo, các chính sách hỗ trợ người lao động gặp khó khăn do ảnh hưởng từ dịch Covid-19 theo các Nghị quyết của Chính phủ được thực hiện hiệu quả. Tính đến ngày 15/6/2022, gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 và Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 8/10/2021 đã triển khai được hơn 43,5 nghìn tỷ đồng, cho 36,7 triệu lượt người lao động và gần 381,7 nghìn đơn vị/hộ kinh doanh sử dụng lao động; gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 116/NQ-CP ngày 24/9/2021 với tổng mức hỗ trợ gần 38,4 nghìn tỷ đồng cho gần 13 triệu lượt lao động và gần 346,7 nghìn đơn vị/hộ kinh doanh sử dụng lao động; gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 với mức hỗ trợ đạt 14,1 tỷ đồng cho 25.660 lao động của 487 đơn vị sử dụng lao động.
– Tính đến ngày 25/6/2022, cả nước có 23.148 trường đã kết thúc năm học, đạt 88% so với số báo cáo đầu năm; có gần 15,4 triệu học sinh, đạt 85,8% và 712,1 nghìn giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy, đạt 87,6%.
– Trong 6 tháng đầu năm 2022, cả nước có 53.626 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (29 trường hợp tử vong); 21.859 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (01 trường hợp tử vong); 110 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (03 trường hợp tử vong); 08 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu và 75 trường hợp sốt phát ban nghi sởi.
– Tính đến ngày 24/6/2022, tổng số liều vắc-xin phòng Covid-19 đã được tiêm là 228.484 nghìn liều, trong đó tiêm mũi 1 là 85.986,1 nghìn liều; tiêm mũi 2 là 78.872,4 nghìn liều; tiêm mũi 3 là 1.509,1 nghìn liều; mũi bổ sung là 14.971,9 nghìn liều; mũi nhắc lại lần 1 là 44.299,8 nghìn liều; mũi nhắc lại lần 2 là 2.844,7 nghìn liều.
– Về thể thao thành tích cao, Việt Nam tổ chức thành công Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 31 (SEA Games 31), Đoàn thể thao Việt Nam đã đạt được kết quả ấn tượng, xếp thứ nhất toàn đoàn với 446 huy chương, trong đó có 205 huy chương vàng, 125 huy chương bạc và 116 huy chương đồng, phá 21 kỷ lục của Đại hội ở các nội dung bơi, điền kinh, lặn, xe đạp, cử tạ.
– Trong tháng (từ 15/5 đến 14/6), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 951 vụ tai nạn giao thông. So với tháng trước, số vụ tai nạn giao thông tháng Sáu tăng 2,8%; số người chết tăng 8,2%. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng Sáu tăng 15,3%; số người chết tăng 20,4%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn cả nước xảy ra 5.684 vụ tai nạn giao thông, làm 3.286 người chết. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 6 tháng đầu năm 2022 giảm 10,4%; số người chết tăng 2,7%. Bình quân 1 ngày trong 6 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn cả nước xảy ra 31 vụ tai nạn giao thông, gồm 22 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 9 vụ va chạm giao thông, làm 19 người chết, 11 người bị thương và 9 người bị thương nhẹ.
– Trong 6 tháng đầu năm 2022, thiên tai làm 75 người chết và mất tích; 52 người bị thương; 160,3 nghìn ha lúa và 31,9 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; hơn 176,2 nghìn con gia súc và gia cầm bị chết; gần 8 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và bị hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong 6 tháng đầu năm 2022 ước tính hơn 5.422,8 tỷ đồng, gấp 10,6 lần so với cùng kỳ năm trước.
– Có 11.485 vụ vi phạm môi trường trong 6 tháng đầu năm 2022. Trong đó, xử lý 9.704 vụ với tổng số tiền phạt là 130,5 tỷ đồng, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước.
– Trong 6 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn cả nước xảy ra 855 vụ cháy, nổ, làm 48 người chết và 50 người bị thương, thiệt hại ước tính 424,7 tỷ đồng, tăng 47,1% so với cùng kỳ năm trước./.
[1] Tốc độ tăng GDP quý II so với cùng kỳ năm trước các năm 2011-2022 lần lượt là: 6,29%; 5,57%; 5,39%; 6,18%; 7,1%; 6,79%; 6,71%; 7,18%; 7,1%; 0,52%; 6,73%; 7,72%.
[2] Năng suất lúa đông xuân năm nay giảm nhiều do giá phân bón, thuốc bảo vệ tăng cao nên người dân hạn chế đầu tư; bên cạnh đó thời tiết diễn biến thất thường, mưa to và ngập úng ở khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung từ cuối tháng 3 trở lại đây, xâm nhập mặn vào cuối vụ ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long cũng làm giảm năng suất lúa.
[3] Hà Tĩnh: đang sửa chữa các tổ máy của nhà máy điện Vũng Áng. Trà Vĩnh: Nhà máy điện Duyên Hải giảm sản lượng theo kế hoạch sản xuất của EVN và bảo dưỡng tổ máy.
[4] Vốn đầu tư ra nước ngoài cấp mới 6 tháng đầu năm 2022 tăng mạnh so với cùng kỳ do có 5 dự án lớn mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư là dự án Công ty cổ phần giải pháp năng lượng Vines sang Mỹ, Ca-na-da, Pháp, Đức, Hà Lan với tổng vốn đầu tư mỗi dự án từ 34,7 triệu USD trở lên.
[5] Vốn đầu tư điều chỉnh giảm mạnh trong 6 tháng đầu năm 2022 do trong 6 tháng đầu năm 2021 có nhiều dự án lớn điều chỉnh tăng vốn: Dự án của Vingroup tại Hoa Kỳ điều chỉnh tăng 300 triệu USD; dự án Công ty TNHH Đầu tư và phát triển cao su Đông Dương tại Cam-pu-chia tăng 76 triệu USD và 01 dự án của Vinfast tại Đức tăng 32 triệu USD.
[6] Ước tính tháng Năm nhập siêu 1,73 tỷ USD.
[7] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.
Ước tính theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, trong tháng 8/2022 xuất khẩu chè đạt 12 nghìn tấn, trị giá 21 triệu USD, giảm 4% về lượng, nhưng tăng 0,8% về trị giá so với tháng 7/2022; tăng 16% về lượng và tăng 22,6% về trị giá so với tháng 8/2021. Tính chung trong 8 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu chè ước đạt 78 nghìn tấn, trị giá 135 triệu USD, giảm 2,2% về lượng, nhưng tăng 1,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Giá chè xuất khẩu bình quân trong tháng 8/2022 ước đạt 1.7810 USD/tấn, tăng 56% so với tháng 8/2021. Tính chung trong 8 tháng đầu năm 2022, giá chè xuất khẩu bình quân ước đạt 1.727,8 USD/tấn, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2021. Tình trạng giãn cách xã hội do dịch bệnh bùng phát vào thời điểm tháng 8/2021 khiến hoạt động sản xuất và xuất khẩu của nhiều ngành hàng bị gián đoạn, trong đó có mặt hàng chè. Điều này dẫn tới lượng và trị giá xuất khẩu chè trong tháng 8/2021 ở mức thấp. Vì vậy, lượng và trị giá xuất khẩu chè trong tháng 8/2022 tăng rất mạnh so với tháng 8/2021, tuy nhiên vẫn giảm nhẹ về lượng, nhưng tăng về trị giá so với tháng 7/2022 do giá tăng.
Trước đó, xuất khẩu chè trong tháng 7/2022 đạt 12,5 nghìn tấn, trị giá 21,2 triệu USD, tăng 8,7% về lượng và tăng 2,1% về trị giá so với tháng 7/2021. Giá chè xuất khẩu bình quân trong tháng 7/2022 đạt 1.695,4 USD/tấn, giảm 6,1% so với tháng 7/2021. Tính chung 7 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu chè đạt 66,2 nghìn tấn, trị giá 113,7 triệu USD, giảm 4,9% về lượng và giảm 1,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021; Giá chè xuất khẩu bình quân đạt 1.718,1 USD/tấn, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 2021.
Trong cơ cấu chủng loại chè xuất khẩu trong 7 tháng đầu năm 2022, chè xanh và chè đen là 2 chủng loại xuất khẩu chính, với lượng chiếm 89% tổng lượng chè xuất khẩu. Trong khi chè xanh xuất khẩu ghi nhận tốc độ tăng trưởng cả về lượng và trị giá, thì chủng loại chè đen xuất khẩu giảm mạnh, đạt 28 nghìn tấn, trị giá 41,2 triệu USD, giảm 15,3% về lượng và giảm 12,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Đáng chú ý, chủng loại chè ô long xuất khẩu trong 7 tháng đầu năm 2022 chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng lượng chè xuất khẩu, nhưng lượng và trị giá tăng rất mạnh, đạt 338 tấn, trị giá 1 1 triệu USD, tăng 69,7% về lượng và tăng 162,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Giá chè ô long xuất khẩu bình quân đạt 3.016,4 USD/tấn, tăng 54,9% so với cùng kỳ năm 2021. Chè ô long xuất khẩu tới thị trường Đài Loan và Trung Quốc, với lượng chiếm 97% tổng lượng chè ô long xuất khẩu.
Pakistan là thị trường xuất khẩu chè chính của Việt Nam. Trong 7 tháng đầu năm 2022, chè xuất khẩu sang thị trường này tăng mạnh cả về lượng và trị giá, đạt 26,2 nghìn tấn, trị giá 49,6 triệu USD, tăng 21,9% về lượng và tăng 17,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Trong khi đó, chè xuất khẩu sang thị trường Đài Loan, Nga, Trung Quốc, Iraq và Ấn Độ giảm mạnh trong 7 tháng đầu năm 2022. Chè xuất khẩu sang thị trường Đài Loan đạt 8,7 nghìn tấn, trị giá 14,8 triệu USD, giảm 16,3% về lượng và giảm 7,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Chè xuất khẩu tới thị trường Nga đạt 5,2 nghìn tấn, trị giá 9 triệu USD, giảm 30,9% về lượng và giảm 25,3% về trị giá; tới Trung Quốc đạt 3,4 nghìn tấn, trị giá 6,9 triệu USD, giảm 47,5% về lượng và giảm 31,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Đáng chú ý, xuất khẩu chè tới thị trường Hoa Kỳ, Malaysia và Ả rập Xê –út tăng rất mạnh trong 7 tháng đầu năm năm 2022. Tốc độ tăng trưởng mạnh trong xuất khẩu chè sang các thị trường này cho thấy chè của Việt Nam đã đáp ứng được nhu cầu khó tính của người tiêu dùng. Cơ hội cho các doanh nghiệp xuất khẩu chè của Việt Nam rất lớn, khi các thị trường này đều là thị trường nhập khẩu chè lớn trên toàn cầu.
Theo nguồn worldstopexports.com, trong năm 2021 Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu chè lớn thứ 2 thế giới sau Pakistan, đạt 531,8 triệu USD, chiếm 8,1% tổng trị giá nhập khẩu toàn thế giới; Ả rập Xê-út là thị trường nhập khẩu lớn thứ 10 trên thế giới, đạt 188,9 triệu USD, chiếm 2,9% tổng trị giá nhập khẩu toàn thế giới.
Tình hình kinh tế Việt Nam năm 2021
Trong thập kỷ trước đại dịch COVID-19, Việt Nam là một trong những thị trường mới nổi phát triển nhanh nhất thế giới (được thúc đẩy bởi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mạnh mẽ vào lĩnh vực sản xuất). Tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt 7% trong cả hai năm 2018 và 2019. Tăng trưởng nhanh chóng của xuất khẩu và dòng vốn FDI là những động lực tăng trưởng quan trọng cho Việt Nam (đặc biệt là sự mở rộng nhanh chóng lĩnh vực dệt may và điện tử).
Đà tăng trưởng kinh tế đã giảm đáng kể vào năm 2020 do tác động của đại dịch COVID-19. Tuy nhiên năm 2020, nền kinh tế Việt Nam vẫn ghi nhận mức tăng trưởng dương 2,9% (so với mức tăng trưởng GDP 7,1% của năm 2019). Vốn FDI giải ngân vẫn có khả năng phục hồi vào năm 2020 bất chấp đại dịch, ở mức khoảng 20 tỷ USD (giảm 2% so với năm 2019. Tuy nhiên, năm 2020 cam kết FDI giảm mạnh hơn, 25% so với cùng kỳ năm trước, xuống còn 28,5 tỷ USD.
Với việc đại dịch trong nước được kiềm chế, đà tăng trưởng kinh tế được củng cố trong nửa đầu năm 2021. Tăng trưởng GDP trong quý II/2021 tăng 6,6% so với mức tăng trưởng 4,65% được ghi nhận trong quý đầu tiên của năm 2021. Động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là xuất khẩu tăng nhanh, đạt 28,4% trong nửa đầu năm 2021. Hoạt động xuất khẩu công nghiệp tăng mạnh cũng thúc đẩy sản xuất công nghiệp trong nửa đầu năm 2021 tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, dòng vốn FDI trong nửa đầu năm 2021 tiếp tục duy trì ở mức 9,2 tỷ USD.
Tuy nhiên, làn sóng dịch bệnh COVID-19 với biến chủng Delta đã lan nhanh khắp Đông Nam Á vào giữa năm 2021 và gây những tác động mạnh đến kinh tế – xã hội của Việt Nam từ quý III/2021. Do làn sóng đại dịch gia tăng, các cơ quan chức năng đã vào cuộc, gia tăng các biện pháp ngăn ngừa dịch nghiêm ngặt đối với nhiều tỉnh. TP. Hồ Chí Minh, một trung tâm thương mại trọng điểm đã phải đối mặt với các biện pháp hạn chế nghiêm ngặt đối với nhiều hoạt động, bao gồm cả giao thông công cộng cũng như các hoạt động kinh doanh không thiết yếu.
Với những tác động tiêu cực từ đại dịch COVID-19, GDP của Việt Nam giảm trong quý III/2021 (-6,17%). Chi tiêu của người tiêu dùng, hoạt động xây dựng và sản xuất chế tạo bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các biện pháp phong tỏa. Điều này khiến điều kiện kinh doanh của các nhà sản xuất trong tháng 6 và tháng 7/2021 giảm mạnh. Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) Việt Nam giảm mạnh từ 53,1 trong tháng 5 xuống 44,1 trong tháng 6/2021. Chỉ số này cho thấy, tình trạng kinh doanh xấu đi nghiêm trọng nhất trong hơn 1 năm và kết thúc giai đoạn tăng trưởng kéo dài sáu tháng. Mặc dù, chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 7/2021 tăng lên 45,1 nhưng mức này vẫn nằm dưới mốc 50,0 cho thấy lĩnh vực sản xuất tiếp tục thu hẹp. Đến tháng 9/2021, PMI tiếp tục giảm hơn nữa, xuống còn 40,2.
Tuy nhiên, do các trường hợp COVID-19 mới hàng ngày bắt đầu giảm trong nửa cuối tháng 9 và đầu tháng 10/2021, việc nới lỏng các hạn chế cho phép nhiều nhà máy mở cửa trở lại, dẫn đến chỉ số PMI tăng mạnh lên 52,1 vào tháng 10/2021.
Trong quý III/2021, các công ty đã ghi nhận sự gián đoạn nghiêm trọng đối với chuỗi cung ứng. Theo đó, mức độ chậm trễ giao hàng đạt mức cao nhất kể từ khi cuộc khảo sát bắt đầu hơn một thập kỷ trước. Khó khăn trong việc vận chuyển cả trong nước và quốc tế, cũng như tình trạng thiếu nguyên liệu khiến. Các nhà sản xuất cũng phải đối mặt với chi phí đầu vào tăng cao.
Trong nửa đầu năm 2021, chương trình vắc xin COVID-19 của Việt Nam tụt hậu đáng kể so với tiến độ tiêm chủng ở nhiều quốc gia phát triển cũng như ở hầu hết các thị trường mới nổi khác. Thậm chí đến cuối tháng 8/2021, tỷ lệ tiêm vắc xin liều đầu tiên cho Việt Nam đã chỉ đạt 15% tổng dân số, so với 80% ở Singapore, 56% ở Malaysia và 50% ở Nhật Bản. Tỷ lệ dân số Việt Nam được tiêm chủng đầy đủ vẫn còn thấp, vào cuối tháng 8/2021 chỉ ở mức 3%. Tuy nhiên, tốc độ triển khai tiêm chủng đã tăng rất nhanh trong tháng 9 và tháng 10/2021, với tỷ lệ tiêm mũi đầu tiên tăng lên 63% vào ngày 8/11/2021, trong khi tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ trong dân số đã tăng lên 31%, đặc biệt đến giữa tháng 12/2021, tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ 2 mũi trong dân số đã tăng lên 60%.
Dữ liệu kinh tế mới nhất cho quý IV/2021 cho thấy, có nhiều tín hiệu tốt cho đà phục hồi của nền kinh tế. Chỉ số PMI trong những tháng cuối năm 2021 cho thấy sự phục hồi mạnh mẽ trong lĩnh vực sản xuất. Tuy nhiên, sự phục hồi kinh tế vẫn gặp khó khăn do sự gia tăng các trường hợp COVID-19 mới hàng ngày cũng như sự gián đoạn chuỗi cung ứng vẫn còn đang diễn ra khá mạnh.Triển vọng trong năm 2022 và trung hạn
Do tác động của làn sóng dịch bệnh COVID-19 với biến chủng Delta mới nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dự kiến sẽ ở mức vừa phải, khoảng 2,5% vào năm 2021, so với mức tăng trưởng 2,9% năm 2020. Đà tăng trưởng GDP phục hồi mạnh mẽ được dự báo cho năm 2022, với tốc độ 6,3% so với cùng kỳ năm trước, do việc tăng cường triển khai vắc xin giúp hạn chế dần đại dịch và cho phép mở cửa dần đối với du lịch quốc tế.
Bên cạnh đó, các hiệp định thương mại tự do có tác động tích cực đến xuất khẩu và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Cụ thể, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) là một động lực quan trọng đối với lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam, với 99% thuế quan song phương dự kiến được xóa bỏ trong vòng bảy năm tới, cũng như cắt giảm đáng kể các hàng rào thương mại phi thuế quan.
Đối với Việt Nam, 71% các loại thuế được xóa bỏ khi EVFTA có hiệu lực vào ngày 1/8/2020. Xuất khẩu của Việt Nam sang EU trong 8 tháng năm 2021 đã tăng 14% so với cùng kỳ năm trước. Phạm vi của EVFTA rất rộng, bao gồm thương mại dịch vụ, mua sắm chính phủ và các luồng đầu tư. Hiệp định Bảo hộ Đầu tư của EU-Việt Nam cũng đã được ký kết sẽ giúp tăng cường đầu tư trực tiếp nước ngoài của EU vào Việt Nam khi Hiệp định này được thực thi.
Việt Nam cũng sẽ được hưởng lợi từ Hiệp định thương mại tự do Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), sẽ thực hiện từ ngày 1/1/2022. (15 quốc gia RCEP gồm 10 quốc gia ASEAN, cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand). Việt Nam đã phê chuẩn hiệp định RCEP, do đó sẽ được hưởng lợi ngay từ ngày thực hiện RCEP. Hiệp định RCEP bao gồm nhiều lĩnh vực: thương mại hàng hóa và dịch vụ, đầu tư, thương mại điện tử, sở hữu trí tuệ và mua sắm chính phủ.
Tuy nhiên, một điểm không chắc chắn trong triển vọng ngắn hạn là biến thể COVID-19 mới đang tấn công các quốc gia trên thế giới nói chung. Nếu trường hợp COVID-19 mới hàng ngày tăng mạnh trở lại, sẽ gây ra rủi ro đáng kể hơn nữa đối với triển vọng ngắn hạn và nhu cầu trong nước. Cũng sẽ có thêm nguy cơ gián đoạn kéo dài đối với sản lượng sản xuất nếu các cụm COVID-19 phổ biến lại được phát hiện trong các cơ sở sản xuất lớn hoặc chuỗi cung ứng hậu cần, như đã xảy ra vào tháng 7 và tháng 8/2021. Việt Nam có thể tăng cường tiêm chủng trong những tháng tới nhưng vẫn dễ bị tổn thương bởi các đợt bùng phát COVID-19 mới.
Bất chấp những rủi ro ngắn hạn này, về triển vọng kinh tế trung hạn, một số lượng lớn các động lực tăng trưởng tích cực đang tạo ra những thuận lợi và tạo nền tảng cho tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam. Điều này được kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng mạnh mẽ về tổng GDP cũng như GDP bình quân đầu người của Việt Nam.
GDP của Việt Nam được dự báo sẽ tăng từ 270 tỷ USD vào năm 2020 lên 433 tỷ USD vào năm 2025, tăng lên 687 tỷ USD vào năm 2030. Điều này có nghĩa là GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng rất nhanh, từ 2.785 USD/năm vào năm 2020 lên 4.280 USD/năm vào năm 2025 và 6.600 USD vào năm 2030, dẫn đến sự mở rộng đáng kể về quy mô thị trường tiêu dùng nội địa của Việt Nam.
Cơ hội tăng trưởng trong trung hạn
Tác động lên kinh tế từ đại dịch COVID-19 dự kiến sẽ giảm trong năm 2022 khi việc triển khai tiêm chủng trở nên phổ biến hơn trên toàn bộ người dân Việt Nam. Một yếu tố thuận lợi mới nữa là việc Pfizer và Merck phát triển thuốc viên để điều trị những bệnh nhân dương tính với COVID-19. Sự kết hợp giữa việc tăng cường triển khai tiêm chủng và cung cấp thuốc điều trị được kỳ vọng sẽ giúp ngăn chặn đại dịch trong năm 2022.
Về triển vọng trung hạn trong 5 năm tới, một số cơ hội mới được kỳ vọng sẽ tiếp tục đưa Việt Nam trở thành một trong những thị trường mới nổi phát triển nhanh nhất trong khu vực châu Á. Cụ thể:
Một là, Việt Nam sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ chi phí lương sản xuất tương đối thấp hơn so với các tỉnh ven biển của Trung Quốc, nơi tiền lương sản xuất đã tăng nhanh trong thập kỷ qua.
Hai là, Việt Nam có một lực lượng lao động tương đối lớn, có trình độ học vấn tốt so với nhiều đối thủ cạnh tranh khác trong khu vực ở Đông Nam Á, trở thành trung tâm sản xuất chế tạo hấp dẫn của các công ty đa quốc gia.
Ba là, chi tiêu vốn dự kiến sẽ tăng nhanh. FDI tiếp tục mạnh mẽ của các công ty đa quốc gia nước ngoài cũng như chi tiêu cơ sở hạ tầng trong nước. Chính phủ Việt Nam ước tính cần 133 tỷ USD chi tiêu cho cơ sở hạ tầng điện mới vào năm 2030, bao gồm 96 tỷ USD cho các nhà máy điện và 37 tỷ USD để mở rộng lưới điện.
Bốn là, Việt Nam đang hưởng lợi từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung, khi mức thuế cao hơn của Mỹ đối với một loạt mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc đã thúc đẩy các nhà sản xuất chuyển sản xuất hàng xuất khẩu khỏi Trung Quốc sang các trung tâm sản xuất thay thế ở châu Á.
Năm là, nhiều công ty đa quốc gia đã và đang đa dạng hóa chuỗi cung ứng sản xuất của họ trong suốt thập kỷ qua để giảm nguy cơ bị gián đoạn nguồn cung cấp và các sự kiện địa chính trị. Xu hướng này càng được củng cố bởi đại dịch COVID-19, khi sự gián đoạn nguồn cung kéo dài từ Trung Quốc trong tháng 2 và tháng 3/2020 đã tạo ra sự xáo trộn trong chuỗi cung ứng toàn cầu cho nhiều ngành, bao gồm ô tô và điện tử. Cho đến nay, xu hướng này vẫn được cho là sẽ tiếp tục diễn ra trong ít nhất là ba năm tới.
Điển hình như với chương trình trợ cấp của Chính phủ Nhật Bản vào năm 2020 cho các công ty Nhật Bản để giúp giảm thiểu tính dễ bị tổn thương của chuỗi cung ứng bằng cách chuyển hoạt động sản xuất ra khỏi Trung Quốc, trở lại Nhật Bản hoặc đến một số quốc gia được chỉ định khác. Chính phủ Nhật Bản đã phân bổ khoảng 220 tỷ Yên cho chương trình tái định hình chuỗi cung ứng trong ngân sách bổ sung của Nhật Bản cho năm tài chính 2020 (tương đương khoảng 2,1 tỷ USD). Việt Nam là một trong những điểm đến ưa thích của các doanh nghiệp Nhật Bản khi chuyển sản xuất sang khu vực ASEAN trong đợt phân bổ trợ cấp đầu tiên do Chính phủ Nhật Bản công bố.
Vai trò trung tâm sản xuất giá rẻ của Việt Nam cũng được kỳ vọng sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, nhờ sự mở rộng hơn nữa của các ngành công nghiệp chính hiện có, đặc biệt là dệt may và điện tử, cũng như sự phát triển của các ngành công nghiệp mới như ô tô và hóa dầu.
Đối với nhiều công ty đa quốc gia trên toàn thế giới, các lỗ hổng nghiêm trọng của chuỗi cung ứng đã bộc lộ do sự gián đoạn kéo dài của sản xuất công nghiệp ở Trung Quốc, cũng như một số trung tâm sản xuất toàn cầu lớn khác trong thời gian bị phong tỏa do dịch bệnh COVID-19. Điều này sẽ thúc đẩy quá trình định hình lại chuỗi cung ứng sản xuất trong trung hạn, khi các công ty cố gắng giảm bớt tính dễ bị tổn thương trước những gián đoạn chuỗi cung ứng nghiêm trọng như vậy.
Căng thẳng thương mại và công nghệ Mỹ-Trung vẫn ở mức cao, có thể sẽ là động lực nữa cho việc cấu hình lại chuỗi cung ứng. Bên hưởng lợi chính từ sự chuyển dịch trong chuỗi cung ứng sản xuất toàn cầu sẽ là khu vực ASEAN và Việt Nam được kỳ vọng là một trong những quốc gia có được nhiều cơ hội. Để có thể tranh thủ được cơ hội đó, Việt Nam sẽ phải nhanh chóng khôi phục lại các hoạt động kinh tế với những biện pháp phòng ngừa dịch bệnh COVID-19 hợp lý hơn trong tình hình mới.
* TS. Đỗ Tất Cường - Viện Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
** Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số kỳ 2 tháng 12/2021